lễ hội làng tôi đôn thư-kim thư-thanh oai-hà nội |
Phúc đáp |
Tác giả | ||||||||||||||||||||||||||
chaomaohanoi
Hồ sơ thành viên
Gửi Mật thư
Tìm bài viết của thành viên
Thăm trang chủ của thành viên
Thêm vào D.sách Bạn bè
Nhi đồng Gia nhập: 18/05/2012 Khu vực: hải phòng Tình trạng: Offline Điểm: 736 |
Chủ đề: lễ hội làng tôi đôn thư-kim thư-thanh oai-hà nội Ngày đăng: 31/05/2012 lúc 12:01am |
|||||||||||||||||||||||||
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=ZmlTp_gpQYI
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=s3Tc_A0hhKw bài viết này lấy từ trang wep của làng tôi ae cùng xem Chào tạm biệt xóm 7, bây giờ mời bạn đến thăm xóm 3, "thủ phủ" của vòng con. Nếu bạn là người quen sống gọn gàng, ngăn nắp, hẳn sẽ thấy bề bộn con mắt lắm. Chắc ở nhà người làm vòng cái, bạn đã có cảm giác này rồi. Giờ ở nhà người làm vòng con, cảm giác ấy có lẽ càng rõ hơn. Vì ngoài đống vòng đã vót, đã chẻ phơi ngoài sân, còn nứa nguyên liệu để ngổn ngang, lại còn đống tướp vòng ngồn ngộn chắn lối đi... Muốn vào nhà, bạn đừng ngần ngại, chịu khó tạm để đôi giày cao gót hàng hiệu mới mua ngoài sân, nhón chân bước qua những thứ ấy. Kẻo vô tình dẫm phải một cái mấu hay mẩu nứa nhỏ vương vãi, có khi vừa hỏng giày, vừa té, bẩn cả chiếc áo đúng mốt, chiếc quần jin Mĩ màu lam, bộ trang phục đang tôn thêm vẻ đẹp hình thể chuẩn như người mẫu của bạn, thì oan gia. Nhưng xin bạn đừng phàn nàn nhé, nhà làm nghề mà. Giống kiểu người làm nghề vẽ thì nhà đầy những mực, những phẩm, những sơn, những giấy, những khung...ấy...
Như đã nói ở trên, vòng con làm bằng nứa, là loại nguyên liệu của rừng, nên người làm vòng con phải mua nứa. Hoặc muốn đỡ tiền mua thì phải lên rừng khai thác (hồi những năm 80 trở về trước). Việc này cũng có cái vất vả riêng. Trước đây, để có nứa làm vòng, người ta phải đi rất xa, cơm hàng cháo chợ, có khi hàng tháng trời mới mang được nứa về. Bây giờ thì thuận tiện hơn, người bán nứa nhiều khi mang đến phục vụ tận nơi. Thế là lại hình thành những cái chợ nứa nho nhỏ, rộn lên một lúc mỗi buổi chiều. Người làm nghề chỉ việc mang nứa về, pha vòng, vót vòng, tương tự như người làm vòng cái. Chỉ khác là công việc có phần nhẹ nhàng hơn, đơn giản hơn, nhưng lại có phần tỉ mỉ hơn, tinh vi hơn.
Vót vòng, chẻ vòng chưa phải là công đoạn cuối. Khi sợi vòng "tròn" đã tròn, nhẵn rồi, sợi vòng "chẻ" đã đều rồi, người làm vòng vẫn chưa hài lòng. Họ còn phải xát vòng, bằng cách ngồi trên ghế cao, dùng hai chân chà đi, chà lại một bó vòng, khiến cho sợi nào, sợi nấy không còn mảy may một chút lươm tươm, dù chỉ tí xíu. Bây giờ thì, những người lao động thông minh làng Đôn Thư đã sáng chế ra chiếc máy xát vòng, làm thay sức người rất có hiệu quả rồi… Và sau khi xát xong, người làm vòng con cũng phải uốn vòng như làm vòng cái. Chỉ khác là không phải "giáp vòng" mà chỉ cần làm cho sợi vòng cong cong. Để khi người làm nón "bứt vòng", khoanh lại, ướm vào khuôn nón, sợi vòng đã tròn vành vạnh. Chưa xong đâu. Để đến tay người làm nón, họ còn phải đếm vòng thành từng "cữ", mỗi "cữ" khoảng từ 25 đến 30 "cỗ" (số lượng vòng con đủ cho một cái nón). Lúc này, nghệ nhân vòng mới yên tâm, là vòng đã đủ tiêu chuẩn mang đi chợ bán được rồi. Hoặc có khách xa đến mua thì bình tĩnh, thong thả mà xuất hàng. Công việc tỉ mỉ như vậy đấy. Nếu bạn là người hay nóng vội, hay sốt ruột, chắc chẳng yêu được cái nghề này. Nhưng tôi dám chắc cả mười phần rằng, nữ tính, thông minh và ham hiểu biết như bạn, muốn theo nghề, học thạo việc là mê nghề, giỏi nghề ngay thôi mà...
Đến làng Đôn Thư, bạn sẽ được nghe rất nhiều từ mới của làng nghề, có tra từ điển suốt ngày cũng chẳng ra. Bạn chuẩn bị giấy bút mà ghi, có thể bổ sung vào vốn ngôn ngữ của bạn nhiều điều hay đấy. Chẳng hạn, cây tre cụt ngọn người ta gọi là cây tre "bường" (liên quan đến sự tích "ông Cộc, ông Dài), cái "đê" gọi là cái "mũ tay", người con trai nhanh nhẹn, xốc vác được ví như "con dao pha". Rồi những là: đi tre, đi nứa, lãi, lòng mặt, bọng, tướp, chuồng mấu, cữ, cỗ...v.v. http://1.bp.blogspot.com/-XfS-ECL7GlA/Tz9ysUyQk6I/AAAAAAAADW8/YXBHJCAwqPI/s1600/xom+3+don+thu+kim+thu.JPG - ...Và từ này thì đố bạn nghĩa là gì: "đi ngồi"?. Sao lại thế? Nghề làm vòng nón không "đi đứng" được hay sao mà phải "đi ngồi"? Mà "đi ngồi" thì chắc chẳng đi xa được đâu nhỉ? Còn vừa "đi" vừa "ngồi", thì đến thánh cũng phải chào thua! Nếu bạn hiểu "đi ngồi" trong trường nghĩa với "đi đứng" như vậy, sẽ "hoàn toàn không chính xác", theo cách nói của những người "em - si" ở một số chương trình truyền hình, có thể bạn đã biết. Xin "bật mí" cắt nghĩa từ "đi ngồi" để bạn khỏi sốt ruột nhé! Ở Đôn Thư, tính tập thể, cộng đồng rất cao. Vì toàn "trong họ ngoài làng", "phi nội tắc ngoại" cả. Cho nên, người ta đến chơi thăm nhau, nhiều khi mang theo cả công việc, vừa làm vừa trò chuyện, hỏi han nhau, cứ râm ran cả lên, vui như tết, tận dụng thời gian không phải "một công đôi việc" mà là "một công đa việc" ấy chứ. Hoặc giả, những người hàng xóm, mang việc sang nhà nhau, vừa làm vừa xem ti vi, bình luận, tán chuyện rôm rả. Thôi thì đủ thứ, "dưa lê, dưa hấu", trên trời, dưới đất, nước ngoài, nước trong...hay lắm. Lúc hăng lên lại còn thách đố, thi tài làm nhanh, làm khéo với nhau. Thật là hữu ích, vừa vui lại vừa được việc, "miệng nói tay làm" mà. Vì thế, vào nhà của người làm vòng Đôn Thư, có thể bạn sẽ được xem những màn trình diễn nghệ thuật miễn phí, rất sinh động, hấp dẫn, với đủ cả vũ đạo, âm thanh, ngôn ngữ đa dạng. Đặc thù của nghề vòng nón có thể khiến người lao động "vừa làm vừa chơi", vừa biểu diễn nghệ thuật như vậy. Lại nữa: Nhiều cháu học sinh ngày trước, nhà nghèo, có khi vừa vót vòng, làm nón vừa học.
Các cháu ấy, "thuở còn thơ ngày "một" buổi đến trường", thời gian còn lại, ở nhà cũng phải "vừa làm vừa học" theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Thế mà khối cháu thành đạt, trưởng thành làm ông nọ, bà kia đấy. Khi các thao tác nghề đã trở thành kĩ năng, kĩ xảo thì đó là chuyện bình thường. Và dân Đôn Thư gọi "đi ngồi" là vậy. Do đó, có một thực tế là, nhiều cụ già có con trưởng thành, giàu sang, sung sướng, định cư ở thành phố, đón cha mẹ ra để phụng dưỡng, báo hiếu, được vài ngày đã sốt sồn sột, nằng nặc đòi về quê. Vì " ở "tỉnh", hàng ngày, con cháu đi làm, đi học hết, nó nhốt mình trong nhà, tù cẳng, thui thủi một mình, chứ sung sướng cái nỗi gì. Ở nhà còn có họ hàng, làng xóm, ra vào, câu chuyện, câu trò chia sẻ vui, buồn, sướng, khổ, tắt lửa tối đèn có nhau". Thế mới biết, trong cuộc sống, nhiều khi nhu cầu tinh thần, tình cảm cộng đồng còn quan trọng hơn cả những thứ của cải, vật chất cao sang!…
Cũng do đặc thù công việc, mà có người cho rằng, nghề vòng nón quá nhàn nhã, "mưa không đến mặt, nắng chẳng đến đầu", "ngồi mát ăn bát vàng". Thế cho nên, ở Đôn Thư, vẫn truyền tụng câu thành ngữ dân gian "thứ nhất làm quan, thứ nhì nan nón". Thì ra, trong quan niệm của người Đôn Thư từ xưa, nghề vòng nón chỉ thua quan một chút thôi mà. Thật tự hào, kiêu hãnh, rất tự tin và chứa chan chất lãng mạn!... Nhân đây, xin phép tác giả và người giữ bản quyền, mời bạn thưởng thức 2 bài thơ sau, để cùng hòa chung niềm vui và niềm tự hào giản dị nhưng sâu sắc của những nhà thơ cao niên, những người dân làng nghề Đôn Thư, thắm thiết với quê hương, với "nghề quí" của làng: Bài 1: NGHỀ VÒNG NÓN ĐÔN THƯ (2) Thời xưa có nói "Nhất làm quan..." Đứng thứ nhì là "Nghệ nón, nan" (3) Mỗi tháng: sáu phiên - tiền lợi nhuận, Mươi ngày: hai bữa - tiệc liên hoan. Gạo ngon hàng yến, đong đầy tải Thịt béo từng cân, xách nặng làn. Nghề quí đời đời truyền để lại... Nhà nhà hưởng lộc được thanh nhàn. Chí Thịnh PHẠM VŨ QUÍ Bài 2: QUÊ HƯƠNG Bên dòng sông Đáy, ven đê Chợ Chiều nghiêng nón đi về có nhau Thủy chung, nhân hậu bền lâu Đôn Thư ta đó - thấm sâu lòng người... Tha hương từ thuở thiếu thời, Yêu quê, tôi nhớ từng lời báo đăng: "Làng khoa bảng, đất danh nhân..." Sáng ngời tâm trí, càng tăng tinh thần: Trung với Đảng, hiếu với dân, Ân tình - xin gửi mấy vần thơ xuân... Xuân Tân Tị - 2002 Việt Thanh PHẠM VŨ LỘC Đến đây, chắc bạn đã hiểu và có thể tự điền thêm vào dấu chấm lửng hai chữ "NAN NÓN", cho hoàn chỉnh câu thành ngữ viết dở đặt làm nhan đề tác phẩm. Bạn đang hí hoáy, cẩn thận dùng bút mực đỏ, tô đậm dòng chữ "THỨ NHẤT LÀM QUAN, THỨ NHÌ NAN NÓN" bằng thứ chữ in hoa rõ ràng và nắn nót chép hai bài thơ vào sổ tay văn học, nét chữ con gái nghiêng nghiêng, tròn trĩnh, chân phương, mềm mại...đẹp quá! Đúng là "nét chữ nết người"!...
Cho nên, là dân Đôn Thư, tôi cảm thấy rất vui sướng, tự hào, kiêu hãnh vì quê hương mình có những nghề mang tính nghệ thuật đặc sắc, đặc trưng, "sánh vai" với các "cường làng nghề" trong cả nước. Đó là thứ "nghề quí đời đời truyền để lại...nhà nhà hưởng lộc được thanh nhàn". Có lẽ, khi đã được mắt thấy tai nghe những điều đặc biệt thú vị về nghề truyền thống của quê hương tôi, bạn cũng muốn được chia sẻ cùng tôi cảm xúc ấy. Tôi đã thấy thoáng hiện trên gương mặt thanh tú, rạng ngời của bạn, nụ cười tươi rói và ánh mắt hân hoan... Đôn Thư, tháng 9 - 2011 |
||||||||||||||||||||||||||
chaomaohanoi
Hồ sơ thành viên
Gửi Mật thư
Tìm bài viết của thành viên
Thăm trang chủ của thành viên
Thêm vào D.sách Bạn bè
Nhi đồng Gia nhập: 18/05/2012 Khu vực: hải phòng Tình trạng: Offline Điểm: 736 |
Ngày đăng: 31/05/2012 lúc 12:04am | |||||||||||||||||||||||||
Tôi cũng có lần phải nhờ ông cậu, là thợ chặt tre dày dạn kinh nghiệm, hạ thủ hộ một cây tre giữa búi. Chả là, tôi cần dùng cây tre thẳng và dài, để làm anten vô tuyến; chuẩn bị đón xem các trận đấu siêu kinh điển, mang tính chất kì phùng địch thủ giữa các câu lạc bộ bóng đá hàng đầu, là những đối thủ truyền kiếp, trong khuôn khổ cúp các đội vô địch các quốc gia châu Âu; và các trận đấu đỉnh cao giữa các cường quốc bóng đá thế giới, tập hợp trong giải wolcup, 4 năm mới có một lần; sẽ được tường thuật trực tiếp trên các kênh sóng của đài truyền hình Việt Nam. Lại còn các giải ngoại hạng của các nền bóng đá lâu đời, đặc sắc như Anh, Tây Ban Nha, Italia, Đức...nữa chứ. Bởi, tôi vốn là đệ tử trung thành của "túc cầu giáo", rất say mê môn thể thao vua, thường đắm chìm vào những màn trình diễn nghệ thuật như làm xiếc với trái banh da của những nghệ sĩ sân cỏ. Phải tính cách đưa anten lên, vượt qua tầm cao của những nhà tầng xung quanh. Vì không biết có phải là "con gà tức nhau tiếng gáy" hay không, mà dân tình trong làng đua nhau "xây cho nhà cao, cao mãi", chắn hết cả đường truyền sóng vô tuyến. Thế là, chỉ còn cách dùng cây tre dài. May mà nhà ông chú hàng xóm còn có một cái ao, mà bờ ao là một "bờ tre xanh". Con trai lớn của chú, ngay từ những ngày đầu xuân mới, với kế hoạch làm ăn lớn, đã hạ "quyết tâm mở rộng vườn ao, đưa kinh tế gia đình tiến lên cùng đất nước" (trích câu đối của Lê Liêm), nhưng vẫn giữ lại "bờ tre xanh" đó. Và tôi cũng được "hưởng lợi" từ việc này.
Thợ chặt tre thành thạo như vậy, nên nhiều khi họ còn được chiêu mộ chặt thuê, có lúc đi xa đến hàng 15, 20 cây số. Thế là cả nhóm lại tay dao, tay cưa lên đường. "Buôn có bạn, bán có phường". Bạn đừng tưởng chỉ buôn bán mới có phường, có bạn đâu, chặt tre cũng có phường đấy. Đến Đôn Thư, bạn có nghe nói đến từ " phường tre", thì cũng đừng ngạc nhiên. Vì những người thợ chặt tre đã tập hợp thành từng nhóm, làm việc có tổ chức và rất hiệu quả. Mỗi khi "đánh" được "quả" nào tươm tươm, họ lại có đồng ra, đồng vào rủng rỉnh, thêm chút tiền, làm cốc bia, cút rượu cho đời thêm tươi. Hay đưa vợ mua thêm con cá, bìa đậu, mấy lạng thịt bò, khoanh giò lụa..., dồi dào thêm cái gắp trong bữa cơm tối. Có lúc cao hứng, cả phường lại tập trung, ngả con chó khoảng dăm, mười cân ra đánh chén theo phương thức "RTC" rất rôm rả.
Tôi chưa được dự liên hoan với phường tre nên cũng không biết món thịt chó, họ chế biến như thế nào. Chỉ nghe nói, thứ đặc sản khoái khẩu của người Việt đó, dưới bàn tay khéo léo của những đầu bếp phường tre cũng lành nghề như thợ chặt tre, được nâng cấp thành loại “đặc sản của đặc sản” mang nhãn hiệu riêng “thịt chó phường tre”…
Rồi sau những bữa nhậu vui vẻ, bao nhiêu kế hoạch làm ăn, kinh nghiệm sống…được mọi người trao đổi cởi mở, thân thiện. Thật đoàn kết, gắn bó, đậm chất "tình làng nghĩa xóm". Tôi cứ bụng bảo dạ là, hôm nào phải năn nỉ ông cậu cho dự ké liên hoan, không phải chỉ để thưởng thức món “đặc sản của đặc sản”, món nhậu thường tôi vẫn “mê li”, mà còn để hưởng cái không khí vui thân, chan hòa của phường tre quê tôi...
Lại còn công đoạn mang tre về nữa chứ. Vất vả lắm. Ngày trước toàn phải gánh. Người ta cưa tre thành từng đoạn bằng kích thước sợi vòng cái, buộc tre theo hình chữ A, rồi gánh bộ về, có khi đi tới hàng chục cây số. Thế mà, có người gánh được tới 3 - 4 cây. Khỏe thật! Bây giờ thì cách đưa tre về nhà đa dạng lắm. Có thể bằng xe có động cơ như công nông, xe máy. Có thể bằng xe thô sơ như xe thồ, xe ba gác...Nhưng dù bằng phương tiện gì thì tôi (vốn không phải dân lao động chân tay xốc vác), cũng phải ngả mũ kính chào. Ôi mẹ ơi! Sao người ta giỏi thế! Xe công nông thì cứ gọi là đầy lắp lu, chiều cao có dễ đến hàng 2 mét có dư, còn chiều dài thì kín hết cả, chẳng thấy xe đâu, cứ tưởng là đống tre to di động. Thế mà, nhiều khi lại phải đi đường đê khấp khểnh, đầy những thứ ổ trâu, ổ gà, lại lên dốc, xuống dốc liên tục. Có lần, tôi phát sợ mà hỏi anh lái "không sợ lật xe à?". Anh cười rất tươi bảo: "Chỉ cần xếp cân và gọn một tí là có thể đi đến tận trời được"... Lại còn anh xe máy, xe đạp cũng tài chứ. Tre cũng được cưa bằng kích thước sợi vòng cái, rồi buộc ngang sau yên xe. Đường thì đông như mắc cửi, hỗn độn đủ các kiểu xe, kiểu người. Giao thông, đường sá Việt
Nếu chặt tre, pha tre là công việc “thổ mộc”, tốn sức, thì vót vòng là công việc nhẹ nhàng hơn. Nhưng lại đòi hỏi khéo léo, tỉ mỉ hơn. Con dao vót vòng khác hẳn con dao chặt, pha tre. Dao chặt, pha tre là dao rựa, sống dao dày, nặng, không cần dài. Còn dao vót vòng lại mỏng hơn, chuôi dao phải thật dài. Người vót ngồi ghế thấp, chân co, chân duỗi, kẹp dao vào cánh tay, hơi cúi nghiêng một chút.
Công đoạn tiếp theo là uốn vòng. Người lao động cầm mỗi tay một đầu sợi vòng, kéo đi kéo lại quanh cối đá làm cho sợi vòng dẻo ra. Khi sợi tre đã dẻo rồi thì bắt đầu nắn. Người nắn cặp một đầu sợi vòng vào ngón chân cái. Rồi từ từ, tay trái cầm sợi vòng, tay phải dùng ngón cái kết hợp với các ngón khác, lần lượt nắn dần cho đến hết sợi vòng. Người khác hoàn chỉnh nốt công đoạn cuối là "giáp vòng", lấy sợi dây giang mỏng mảnh buộc nối hai đầu sợi vòng, nắn qua lượt nữa là xong... Nói lí thuyết thì có vẻ dài dòng, quanh co vậy. Thực tế, "nghệ nhân" vòng thao tác nhanh lắm, cứ thoăn thoắt ấy. Cộng với sự "phân công" lao động hợp lí trong gia đình và đức tính cần cù, chịu khó, nên kết quả lúc nào cũng vượt mức kế hoạch...
“Nết na…xinh thực là xinh, Mắt em loáng “ướt” cho tình anh say. Lòng riêng, riêng một chút này… Bao giờ… loan phượng…một ngày chung vui… Cô gái cũng không kém phần thông minh, tinh tế, tình tứ: Anh riêng, em cũng riêng đây, Em xin nói nhỏ câu này với anh: “Mắt ướt” là tại giếng đình, Cả làng “ướt mắt”, riêng mình em đâu. “Say” nhau thì hãy vì nhau… Cho loan sánh phượng, cho câu “chung tình”…
Câu trả lời vừa hóm, vừa tinh, vừa nhẹ nhàng của cô gái như xua tan chút xíu nghi ngại nơi trái tim chàng trai. Và cảm mến nhau vì tài, vì sắc, vì nết, vì tình, họ nên vợ, nên chồng, sống với nhau hạnh phúc, trong ấm ngoài êm. Không biết họ làm cách nào mà cô gái mắt vẫn ướt nhưng không phải “ướt” vì nước giếng đình mà ướt vì tình sâu, nghĩa nặng, thủy chung như nhất… Đấy là nói chuyện ngày xửa, ngày xưa và cũng chỉ là chuyện dân gian. Chứ thực ra, hình ảnh giếng làng Đôn Thư đã đi vào những câu ca dao của làng với tình cảm thật đẹp, thật đằm thắm: “Giếng Đôn Thư vừa trong vừa mát, Đường Đôn Thư lắm cát dễ đi” Hay: “Dù ai lử khử, lừ khừ, Uống bát nước giếng Đôn Thư lại giòn” Dùng nước giếng ấy chỉ có “mát”, “giòn” ra chứ làm sao mà mắt “ba vành sơn son” được! Bây giờ thì dân làng không dùng nước giếng nữa. Hình ảnh cái giếng xưa “vừa trong vừa mát” sẽ đi vào những kỉ niệm ngọt ngào về một thời quá vãng tươi đẹp của biết bao thế hệ trai gái quê ta…Cái giếng đình làng Đôn Thư đang được qui hoạch lại để thả sen. Tổng thể “linh hồn” của làng quê “cây đa, giếng nước, sân đình” sắp được tôn tạo lại, thay cho “liên chi đàm, trúc chi tân, ngân ngư chi phố” xưa kia. Tôi rất tán đồng với chủ trương này. Ta không tái tạo được “vạn khoảnh liên đàm” hay một chút “liên chi đàm” thì ta tạm gây dựng…“tỉnh chi đàm” (giếng sen) vậy. Tưởng tượng cái giếng sen sắp tới, tôi nhớ đến bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) nổi tiếng của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi mà thấy xao xuyến, lâng lâng cả lòng: “…Chẳng phải như đào trần, lí tục, Chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy. Câu kỉ phòng tăng khó sánh, Mẫu đơn đất Lạc nào bì; Giậu Đào lệnh cúc, sao ví được, Vườn Linh quân lan, sá kể gì. Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Họa đây!...” … Làng Đôn Thư “văn vật cảnh” như vậy, thảo nào trai gái Đôn Thư đều là “tú nữ, hiền nam” cả. Con gái Đôn Thư thì “có mào có mỏ”, toàn diện, “miễn chê”, trai làng và cả “trai tráng quanh vùng”…“say”, chết mê, chết mệt là “chuyện thường ngày ở làng”: “Con gái làng Đôn đẹp nõn nà Quanh vùng trai tráng vẫn thường qua Bởi mê không chỉ về xuân sắc Còn quí và thương nết thật thà Con gái làng Đôn lại nết na Ruộng đồng, vòng nón rất tài hoa Còn ham học tập, xây mơ ước Nối chí ông cha, rạng nghiệp nhà. Con gái làng Đôn thật dịu hiền Lời ăn, tiếng nói đến là duyên… Bao chàng mê mệt về không ngủ Bởi nhớ bờ vai mịn tóc huyền… (Con gái Làng Đôn – Phạm Vũ Diên)
|
||||||||||||||||||||||||||
Phúc đáp | |
Tweet
|
Chuyển đến Chuyên mục | Quyền tại Chuyên mục Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này Bạn không thể phúc đáp bài viết cho các chủ đề trong diễn đàn này Bạn không thể xóa bài viết của mình trên diễn đàn này Bạn không thể sửa bài viết của mình trên diễn đàn này Bạn không thể tạo phiếu thăm dò trên diễn đàn này Bạn không thể bình chọn phiếu thăm dò trên diễn đàn này |